Thánh nữ Zedislava de Lemberk, giáo dân. Lễ nhớ (Phụng vụ Dòng Đaminh)
Memorial of Saint Elizabeth Ann Seton, Religious (USA)
SỐNG LỜI CHÚA
GOSPEL : Mk 6:34-44
When Jesus saw the vast crowd, his heart was moved with pity for them,
for they were like sheep without a shepherd;
and he began to teach them many things.
By now it was already late and his disciples approached him and said,
“This is a deserted place and it is already very late.
Dismiss them so that they can go
to the surrounding farms and villages
and buy themselves something to eat.”
He said to them in reply,
“Give them some food yourselves.”
But they said to him,
“Are we to buy two hundred days’ wages worth of food
and give it to them to eat?”
He asked them, “How many loaves do you have? Go and see.”
And when they had found out they said,
“Five loaves and two fish.”
So he gave orders to have them sit down in groups on the green grass.
The people took their places in rows by hundreds and by fifties.
Then, taking the five loaves and the two fish and looking up to heaven,
he said the blessing, broke the loaves, and gave them to his disciples
to set before the people;
he also divided the two fish among them all.
They all ate and were satisfied.
And they picked up twelve wicker baskets full of fragments
and what was left of the fish.
Those who ate of the loaves were five thousand men.
BÀI ĐỌC
Bài đọc 1 : 1 Ga 4,7-10
Thiên Chúa là tình yêu.
Bài trích thư thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ.
7Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.
8Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu.
9Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được biểu lộ như thế này :
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.
10Tình yêu cốt ở điều này :
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
Đáp ca : Tv 71,1-2.3-4ab.7-8 (Đ. x. c.11)
Đ. Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
1Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
2để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Đ. Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
3Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
4abNgười sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo.
Đ. Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
7Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị
tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
8Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Đ. Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
Tung hô Tin Mừng : Lc 4,18
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha. Ha-lê-lui-a.
TIN MỪNG : Mc 6,34-44
Khi hoá bánh ra nhiều, Đức Giê-su tỏ mình là ngôn sứ.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
34 Khi ấy, Đức Giê-su thấy một đoàn người đông đảo, thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa : “Nơi đây hoang vắng và giờ đã khá muộn. 36 Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” 37 Người đáp : “Chính anh em hãy cho họ ăn đi !” Các ông nói với Người : “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao ?” 38 Người bảo các ông : “Anh em có mấy cái bánh ? Đi coi xem !”. Khi biết rồi, các ông thưa : “Có năm cái bánh và hai con cá.” 39 Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. 41 Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. 42 Ai nấy đều ăn và được no nê. 43 Người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. 44 Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông.
SUY NIỆM
TÌNH YÊU ĐƯỢC TRAO BAN
Trong lời bài hát Kinh Hòa Bình: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Quả thật, tình yêu chỉ mang lại ý nghĩa đích thực trong tương quan hai chiều kích: chiều kích của kẻ lãnh nhận và ngược lại đến từ người trao ban.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều xuất phát từ lòng thương xót của Đức Giêsu. Người chạnh lòng thương vì dân chúng giống như bầy chiên không người chăn dắt. Việc hóa bánh ra nhiều của Người không chỉ là cho dân chúng được ăn uống thoả thuê nhờ vào những của ăn chóng hư nát, nhưng là muốn hướng tới của ăn thần linh mang lại sự sống vĩnh cửu, qua việc trao ban chính Người trên cây thập giá. Chính Máu Thánh của Đức Giêsu đổ ra sẽ giao hoà tội lỗi con người với Thiên Chúa và mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.
(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)
LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY
Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn chúng con biết yêu thương tha nhân như Ngài đã yêu, biết trao ban như Ngài đã trao ban chính mình hầu chúng con có thể được hưởng sự sống đời đời. Amen.
TU ĐỨC SỐNG ĐẠO
Thánh nữ Zedislava de Lemberk, giáo dân (1220 – 1252)
Lễ nhớ
Zedislava Berka, sinh khoảng năm 1220, tại Krizanov (Moravia, Czech), là con đầu lòng của một gia đình điền chủ giàu có và tốt lành. Thân phụ của chị, ông Prybislav, là vương hầu thành Veveri và Brno, đồng thời là vị đại diện của vua Wenceslaus I (Venxétlao). Ông đã lập một nhà thương, tu viện và đan viện cho các anh em Hèn Mọn ở Brno (Brơnô), và đan viện Xitô ở Zoár (Dô-a). Thân mẫu chị, bà Sibilla, từng hầu cận hoàng hậu Ba Lan là thánh nữ Kuneguda.
Năm 20 tuổi, Zedislava kết hôn với vị vương hầu thành Lemberk là Havel Markvartice. Ông rất được nhà vua tín cẩn và là người đi chinh phục miền nam Bohemia cho Ba Lan. Thừa hưởng một gia sản tinh thần phong phú, Zedislava đã thể hiện di sản tốt lành ấy trong đời sống gia đình cũng như tại những nơi chị hiện diện. Những người được hưởng lợi trước hết là phu quân và bốn người con của chị, rồi đến các gia nhân, đồng bào và những ai nghèo khổ bệnh tật. Cùng với chồng, chị chăm lo cho việc truyền bá Tin Mừng bằng cách cộng tác vào hoạt động của các anh em Giảng Thuyết và xây dựng cho anh em các tu viện ở Giablonae.
Chị Zedislava qua đời tại Giablonae năm 1252 và được mai táng trong nhà thờ thánh Lôrenxô của anh em Đa Minh. Nhà thờ này được nâng lên hàng vương cung thánh đường để kỷ niệm biến cố Đức Gioan Phaolô II tôn phong chị lên hàng hiển thánh vào ngày 21 tháng 5 năm 1995, ở Olomouc (Moravia). Các sử gia thời trung cổ đã gọi chị là “Lệnh bà của đời sống thánh thiện”, ca tụng đức ái giàu hoa trái và lòng chung thuỷ hôn nhân của chị. Từ nhiều thế kỷ qua, dân chúng Czech đã tôn 49 kính chị như vị bổn mạng của đất nước, gương mẫu của các bà mẹ và là vị thánh hằng rộng rãi thi ân giáng phúc.
Phụng vụ Dòng Anh Em Giảng Thuyết
Thánh Êlizabeth Anna Sitôn
“Mẹ Sitôn” là danh hiệu mà mọi người đều biết khi Êlizabeth qua đời ngày mùng 4 tháng Giêng năm 1821 ở Emmitsbơ, Maryland. Cuộc sống đầy những ngạc nhiên bất ngờ đã trao tặng thánh nữ danh hiệu đó.
Êlizabeth sinh ngày 28 tháng Tám năm 1774 tại thành phố Niu Gioóc. Thân sinh của ngài, ông Richard Bơlây, là một bác sĩ danh tiếng. Thân mẫu của Êlizabeth, là bà Catarina, đã lìa đời khi Êlizabeth còn rất trẻ. Êlizabeth là một tín hữu theo đạo Tin lành, thuộc giáo phái Epiocopan. Khi còn là thiếu nữ, Êlizabeth đã làm nhiều việc tốt để giúp đỡ những người nghèo khổ.
Năm 1794, Êlizabeth kết hôn với William Sitôn. Ông là một lái buôn giàu có và là chủ của một đoàn tàu. Êlizabeth, William và năm người con cùng chung sống hạnh phúc bên nhau. Nhưng đột nhiên chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, William mất hết gia sản và sức khỏe ông bị suy giảm. Người vợ của ông nghe nói khí hậu ở bên nước Ý có thể giúp ông khá hơn. Vì vậy, Êlizabeth, William và Anna, đứa con gái lớn nhất của họ, đã đáp tàu sang Ý. Nhưng sau đó ít lâu, William qua đời. Êlizabeth và Anna ở lại Ý như những người khách của gia đình Filicchi. Những người trong gia đình này rất tử tế, tốt bụng. Họ cố gắng xoa dịu nỗi đau đớn của Êlizabeth và Anna bằng cách chia sẻ cho hai người nghe biết về tình yêu thâm sâu của họ trong đức tin Công giáo. Êlizabeth trở về nhà ở Niu Gioóc với ý định sẽ trở nên một tín hữu Công giáo. Gia đình và bạn bè của ngài không hiểu được điều đó nên họ rất lấy làm khó chịu; thế nhưng với lòng can đảm, Êlizabeth cứ tiến hành điều mình đã quyết định. Êlizabeth đã gia nhập Giáo hội Công giáo ngày 4 tháng Ba năm 1805.
Ít năm sau, người ta mời Êlizabeth đến mở một trường nữ sinh ở Baltimo. Ở đó, Êlizabeth đã quyết định sống như một nữ tu. Cũng có nhiều chị em đến gia nhập nhóm của ngài, gồm cả cô em gái và người chị dâu nữa. Các con của Êlizabeth, Anna và Catarina cũng lần lượt tham gia nhóm ấy. Họ trở thành hội Nữ Tu Bác Ái Người Mỹ và người ta tôn tặng cho Êlizabeth tước hiệu “Mẹ Sitôn.” Êlizabeth trở nên nổi tiếng. Ngài đã thiết lập nhiều trường học Công giáo và một số viện mồ côi. Êlizabeth cũng dự tính sẽ lập một bệnh viện và viện này đã được khai trương sau khi ngài qua đời.
Êlizabeth yêu thích việc viết lách và ngài đã chuyển dịch một số sách giáo khoa từ tiếng Pháp sang tiếng Anh. Nhưng đặc biệt nhất là thánh nữ thích việc viếng thăm những người nghèo khổ, đau yếu.
Đức thánh cha Phaolô VI đã tôn phong Êlizabeth lên bậc hiển thánh ngày 14 tháng Chín năm 1975.
Nếu có điều gì xảy ra làm thay đổi cuộc sống của chúng ta từ hạnh phúc sung sướng sang khó khăn bế tắc, chúng ta hãy quay ánh nhìn về Thiên Chúa như Mẹ Sitôn và kêu xin Người giúp đỡ. Thiên Chúa có thể giúp chúng ta nhận thấy rằng những khó khăn đó có thể làm sáng tỏ những tài năng ẩn giấu bên trong chúng ta như thế nào. Và rồi chúng ta sẽ hoàn thành được điều chúng ta chẳng bao giờ mơ tới.
http://www.paolinevn.org