KÍNH TRỌNG THỂ :
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM : THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC VÀ CÁC BẠN, TỬ ĐẠO
SỐNG LỜI CHÚA
GOSPEL : LK 9:23-26
Then he said to all, “If anyone wishes to come after me, he must deny himself and take up his cross daily[a] and follow me. 24 For whoever wishes to save his life will lose it, but whoever loses his life for my sake will save it. 25 What profit is there for one to gain the whole world yet lose or forfeit himself? 26 Whoever is ashamed of me and of my words, the Son of Man will be ashamed of when he comes in his glory and in the glory of the Father and of the holy angels.
TIN MỪNG : Lc 9,23-26
Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với mọi người rằng : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ? 26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.”
SUY NIỆM
MỘT HÀNH TRÌNH – MỘT LỰA CHỌN
“Đông qua tiết lại thời xuân tới.
Khổ tạm mai sau hưởng phúc an.
Làm kẻ anh hùng chi quản khó.
Nguyện xin cùng gặp chốn thanh nhàn.”
(Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc)
Trong bối cảnh tiên báo về cuộc Thương Khó lần thứ nhất, trình thuật Luca đưa ra những điều kiện mà người môn đệ cần có để theo Đức Giê-su. Những điều kiện ấy có thể tóm về ba điểm này: bỏ mình, vác thập giá mình và hy sinh mạng sống mình.
“Bỏ mình” để không còn sống cho con người cũ, con người xác thịt, nhưng là sống cho con người mới, con người của Thần Khí. “Vác thập giá mình” là đón nhận lấy thân phận hữu hạn được mời gọi thuộc về Thiên Chúa, nghĩa là chấp nhận chia sẻ thân phận của Thầy, Đấng trở nên người phàm để con người dự phần địa vị làm con Thiên Chúa. Cuối cùng, đỉnh cao của mọi hy tế là tự nguyện khước từ cái mà thế gian vẫn không thôi bám lấy: mạng sống mình. Cuộc khước từ ấy hướng đến một đích điểm rõ ràng: vì Thầy, vì lời của Thầy.
Có thể nói, các thánh tử đạo Việt Nam mà hôm nay chúng ta mừng kính, đã chu toàn ba điều kiện trên để trở nên người môn đệ của Thầy Giê-su. Hơn 350 năm qua, giá máu của các thánh tử đạo Việt Nam đã minh chứng cho chọn lựa chung kết của các ngài. Nhờ giá máu ấy, Thiên Chúa đã không ngừng làm cho mảnh đất tâm hồn con người Việt trổ sinh hoa quả ơn cứu độ.
(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)
LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY
Lạy Chúa Giê-su, trong ngày lễ các thánh tử đạo Việt Nam hôm nay, xin cho chúng con luôn biết noi gương các ngài, để chúng con luôn can đảm sống niềm tin cho dù có gặp những khó khăn thử thách.
TU ĐỨC SỐNG ĐẠO
VẺ ĐẸP CỦA TỬ ĐẠO KITÔ GIÁO
Từ vụ tấn công khủng bố kinh hoàng ngày 11-9-2001 nhắm vào nước Mỹ, thế giới phải không ngừng đối diện với những cuộc tấn công khủng bố ở khắp nơi, dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều đặc biệt là những cuộc tấn công cảm tử giết người như thế được chính những kẻ thực hiện gọi là hành động “tử vì đạo”, nhân danh đức tin Hồi giáo. Dĩ nhiên, ít nhiều đó là sự lạm dụng tôn giáo của những thành phần cực đoan. Dẫu sao, việc lan truyền thuật ngữ “tử vì đạo” trên các phương tiện truyền thông hiện đại, thường gắn liền với các cuộc tấn công khủng bố cảm tử như thế, dễ gây ngộ nhận về ý nghĩa của thuật ngữ này cho nhiều người, kể cả những người công giáo. Mặt khác, thuật ngữ “tử vì đạo” cũng rất phổ thông trong Kitô giáo. Nhưng ý nghĩa của khái niệm “tử vì đạo” không luôn luôn giống nhau giữa Hồi giáo và Kitô giáo.
Năm 2018, Hội thánh Công giáo Việt Nam mở Năm Thánh kỷ niệm 30 năm ngày tuyên phong hiển thánh của 117 vị Thánh Tử Đạo tại Việt Nam (1998-2018), chúng ta cùng tìm hiểu lại và sống ý nghĩa cũng như vẻ đẹp của tử đạo trong Kitô giáo, “để Năm Thánh mang lại nhiều ơn ích thiêng liêng cho mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn và giáo xứ, cũng như cho toàn thể Hội Thánh Việt Nam”[1].
I. TỬ ĐẠO, CHỨNG NHÂN ĐỨC TIN, ĐỨC CẬY VÀ ĐỨC ÁI
Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI thường được gọi là Giáo hoàng của “những điều cốt yếu”. Và trong “nhiệm kỳ” giáo hoàng của mình, ngài đã muốn hướng dẫn toàn thể Giáo hội trở về với những điều cốt yếu của đời sống Kitô giáo. Điều cốt yếu nhất trong những điều cốt yếu là ba nhân đức đối thần: Đức Tin – Đức Cậy – Đức Ái. Dấu ấn rõ ràng nhất là các thông điệp của ngài: Deus caritas est – Thiên Chúa là Tình Yêu (2005), Spe salvi – Được cứu độ trong hy vọng (2007), và hiểu cách nào đó Lumen fidei – Ánh sáng đức tin (2013)[2]. Điều chúng ta quan tâm là cách giải thích của ngài về ý nghĩa và vẻ đẹp của tử đạo Kitô giáo như hành động của Đức Tin, Đức Cậy và Đức Ái.
1. Tử đạo là hành động của Đức Tin
Tử đạo theo nguyên ngữ Hy Lạp là martus, marturos, có nghĩa là người làm chứng cho niềm tin tôn giáo. Trong Kitô giáo, người tử đạo hiểu là người chịu bách hại đến hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô chết và phục sinh.
Nền tảng sức mạnh của hành động tử đạo chính là Đức Kitô. Đọc tiểu sử các vị tử đạo, chúng ta ngạc nhiên vì lòng can đảm, tính kiên trì và sự thanh thản của các ngài khi phải đối diện với đau khổ và sự chết. Sức mạnh ấy không phải là kết quả của những cố gắng phàm nhân. Sức mạnh ấy đến từ chính Đức Kitô, nơi Người họ đặt niềm tin tuyệt đối.
Theo nghĩa này, chúng ta gọi tử đạo là hồng ân đức tin, nghĩa là ơn cao trọng Thiên Chúa ban để làm cho vị tử đạo có khả năng dâng hiến mạng sống mình vì niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Theo thánh Phaolô, đó là sức mạnh của chính Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của những con người biết tín thác vào Ngài (x. 2 Cr 12,9).
Thông điệp Lumen fidei diễn tả cùng một ý nghĩa: “Trong giờ thử thách, đức tin soi sáng chúng ta; trong đau khổ và yếu đuối, chúng ta nhận thấy rõ rằng “chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (2 Cr 4,5). […] Người Kitô hữu biết rằng đau khổ thì không thể loại bỏ, nhưng có thể mặc lấy một ý nghĩa, trở nên hành động yêu thương, tín thác vào tay Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi chúng ta, và bằng cách này, trở nên một giai đoạn tăng trưởng trong đức tin và tình yêu”[3].
Rõ ràng, tử đạo là hành động của đức tin, nghĩa là chấp nhận cái chết để tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô. Vì thế, thử thách cuối cùng mà các vị tử đạo thường phải chịu là chối bỏ đức tin. Cụ thể là chối bỏ Đức Kitô, chối bỏ thập giá của Đức Kitô, biểu tượng của đức tin Kitô giáo.
Vì tử đạo là hành động của đức tin, nên theo truyền thống Giáo Hội, chúng ta gọi các thánh tử đạo là những chứng nhân của Đức Tin.
2. Tử đạo là hành động của Đức Cậy
Đức Cậy không phải là điều mới lạ trong truyền thống Giáo hội. Tuy nhiên, nét nổi bật trong thông điệp Spe salvi là việc Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI đã liên kết cách sống động đức tin với niềm hy vọng Kitô giáo, giúp chúng ta hiểu việc tử đạo như là một hành động của Đức Cậy. Thông điệp diễn tả: “Sự cứu chuộc được tặng ban cho chúng ta theo nghĩa là chúng ta đã được ban cho niềm hy vọng, một niềm hy vọng khả tín, nhờ đó chúng ta có thể đương đầu với hiện tại. Dù là một hiện tại khổ nhọc, chúng ta có thể sống và chấp nhận hiện tại, nếu nó dẫn đến một cùng đích, nếu chúng ta có thể chắc chắn về cùng đích này, và nếu cùng đích này cao cả đến mức có thể biện minh cho những cố gắng trên đường đi”[4].
Bí quyết của niềm hy vọng khả tín ấy không gì khác hơn là chính Đức Kitô, Đấng đã nhập thể và mặc lấy mọi nỗi khốn cùng của con người, đã chịu khổ nạn và phục sinh để ban tặng cho con người niềm hy vọng khả tín, có khả năng lướt thắng mọi khổ đau, dù là sự chết. Ngài khẳng định các thánh tử đạo là chứng nhân cho niềm hy vọng khả tín ấy, và trở nên mẫu gương nuôi dưỡng niềm hy vọng của người tín hữu: “Chúng ta cũng cần đến các chứng nhân, những vị tử đạo, những người đã hoàn toàn hiến thân, để có thể chỉ cho chúng ta niềm hy vọng ấy, từ ngày này qua ngày khác”[5].
Ngài minh chứng điều đó bằng nhiều mẫu gương, nhưng chúng ta dừng lại với hai nhân chứng đức tin người Việt Nam, qua hai cách thể hiện Đức Cậy là “cầu nguyện” và “chịu đau khổ”. Trước tiên là mẫu gương cầu nguyện của Đức Hồng y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận. Đối với Đức Thánh Cha, trong những hoàn cảnh tuyệt vọng của phàm nhân, người tín hữu vẫn luôn còn niềm hy vọng, thể hiện qua đời sống cầu nguyện: “Khi không còn ai lắng nghe tôi nữa, Chúa vẫn nghe tôi. Khi tôi không còn khả năng tâm sự hay kêu cầu được với ai, tôi luôn luôn có thể thưa với Chúa. Khi không còn ai giúp tôi biết xử sự thế nào trước nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, Chúa có thể giúp tôi. Dù tôi bị đắm chìm ngập lụt trong cô liêu hoàn toàn… nếu tôi cầu nguyện thì tôi không bao giờ hoàn toàn đơn côi”[6].
Và ngài nhìn Đức Hồng y như một mẫu gương sống Đức Cậy cách phi thường: “Suốt 13 năm bị giam cầm, trong một tình trạng hầu như tuyệt vọng hoàn toàn, việc lắng nghe Thiên Chúa và có thể thưa chuyện với Ngài đã trở nên sức mạnh hy vọng ngày càng gia tăng, niềm hy vọng đã khiến ngài, sau khi được tự do, trở nên một chứng nhân hy vọng cho mọi người trên toàn thế giới, chứng nhân của niềm hy vọng cao cả không tàn lụi, ngay cả trong đêm tối của cô đơn”[7].
Kế đến là mẫu gương chịu đau khổ của thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh. Theo Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI, những nhục hình và đau khổ thật khủng khiếp, và dĩ nhiên sức phàm nhân thì không thể chịu nổi. Nhưng qua lá thư “viết từ hỏa ngục” gởi cho các chủng sinh, thánh Lê Bảo Tịnh đã cho thấy rằng ngài có thể chuyển hóa đau khổ thành niềm vui nhờ sức mạnh của Đức Cậy phát xuất từ Đức Tin, rằng với người sống Đức Cậy thì dù có ở trong bóng tối của hỏa ngục, họ vẫn nhìn thấy ánh sáng cứu độ nơi mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh của Đức Kitô.
“Tôi là Phao-lô, đang bị xiềng xích vì Đức Kitô, muốn nói cho anh em biết những gian truân tôi đang chịu hằng ngày, để anh em được cháy lửa yêu mến Chúa mà hợp với tôi dâng lời ca ngợi Chúa, bởi vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136 [135], 3). Ngục thất này quả là hình ảnh sống động của hỏa ngục đời đời: ngoài gông cùm, xiềng xích, dây thừng, lại còn thêm sự nóng giận, oán thù, nguyền rủa, những lời tục tĩu, những sự gây gổ, những hành vi xấu xa, những lời thề gian, nói hành và cả nỗi chán nản, buồn phiền, cả ruồi muỗi rận rệp. […] Những cực hình này thường làm cho người khác buồn sầu, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, tôi vẫn đầy vui sướng hân hoan, bởi vì tôi không chỉ có một mình, nhưng có Đức Ki-tô ở cùng tôi. […] Lạy Chúa, làm sao con sống nổi khi hằng ngày con thấy quan quyền và thuộc hạ của họ nói phạm đến Thánh Danh Chúa, Đấng ngự trên các thần Kê-ru-bim và Xê-ra-phim? (x. Tv 80,1 [79,2]). Kìa thập giá của Chúa bị kẻ ngoại đạo chà đạp dưới chân! Còn đâu là vinh quang Chúa? […] Lạy Chúa, xin tỏ cho con thấy quyền năng của Chúa, xin cứu giúp con, để trong sự yếu đuối của con, sức mạnh của Chúa được biểu lộ và tôn vinh trước mặt thế gian. […] Tôi viết cho anh em những điều này, để chúng ta được hiệp thông với nhau trong đức tin: giữa cơn bão táp này, tôi đã thả một cái neo tận ngai Thiên Chúa; đó là niềm hy vọng luôn sống động trong lòng tôi”[8].
Rõ ràng, như Đức Tin là sức mạnh giúp các vị tử đạo vượt qua những cơn thử thách gian nan, thì Đức Cậy phát xuất từ Đức Tin chính là sức mạnh giúp các ngài lướt thắng những khổ đau phải chịu. Với ý nghĩa này, chúng ta có thể hiểu các thánh tử đạo là những chứng nhân của Đức Cậy.
3. Tử đạo là hành động của Đức Ái
Như chúng ta biết, thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Bê- nê-đic-tô XVI mang tựa đề “Deus caritas est – Thiên Chúa là Tình Yêu”. Chúng ta dễ dàng nhận ra nét đặc thù của đời sống Kitô giáo mà ngài muốn làm nổi bật là Đức Ái. Có thể tóm lược lý luận của ngài như sau: chúng ta tin Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1 Ga 4,8), và con người là hình ảnh Thiên Chúa (St 1,27); hình ảnh chỉ rõ đẹp khi phản chiếu đúng nguyên ảnh; vì Thiên Chúa là Tình Yêu nên ơn gọi của con người là sống yêu thương; như thế, vẻ đẹp của đời Kitô hữu chỉ có thể là sống yêu thương.
Vì ơn gọi đời Kitô hữu là sống yêu thương, nên tử đạo là một hành động yêu thương tuyệt đỉnh của đời Kitô hữu. Điều này đã được Đức Thánh Cha khẳng định trong buổi đọc kinh truyền tin ngày 26 tháng 12 năm 2007: “Tử đạo Kitô giáo là một hành động yêu thương tuyệt hảo dành cho Thiên Chúa và cho tha nhân, kể cả những người bách hại”[9].
Rõ ràng, đặc tính làm nên sự khác biệt của tử đạo Ki-tô giáo chính là Đức Ái, tình yêu thần linh được thể hiện trong tình yêu nhân linh. Tình yêu này “làm cho con người đi vào một chiều kích mới, nơi lòng khoan dung và tình yêu thương đối với cả kẻ thù địch có thể làm chứng tá cho sự thắng thế của Thập giá trên mọi yếu đuối và bất hạnh của con người”. Trong trái tim của những vị tử đạo Kitô giáo không hề có chút bóng dáng của lòng thù hận.
Đức Thánh Cha nêu lên hai chứng nhân trong trại tập trung Auschwitz, thánh Maximilian Kolbe và thánh Thérèse Bernadette de la Croix (Edith Stein), để minh họa cho hành động tử đạo vì tình yêu[10]. Nhờ đức tin, các ngài đã biến những đau khổ chết chóc thành tình yêu cứu sống. Ngài diễn tả hành động yêu thương đó như sau: “Vị tử đạo Kitô giáo, như Đức Kitô và nhờ sự kết hợp với Người, tự thẳm sâu tâm hồn mình chấp nhận thập giá, nghĩa là cái chết, và biến đổi sự chết thành hành vi yêu thương. Điều nhìn bên ngoài toàn là bạo lực tàn nhẫn lại trở thành từ nội tâm họ một hành động yêu thương tự hiến trọn vẹn. Như thế, bạo lực được chuyển hóa thành tình yêu và cái chết được chuyển hóa thành sự sống. Vị tử đạo Kitô giáo làm nên cuộc chiến thắng của tình yêu trên lòng thù hận và sự chết”[11].
Với cách giải thích như trên, ngài đã làm mới lại một cách nhìn về việc tử đạo như là hành động của Đức Ái. Và như vậy, chúng ta có thể nói, các thánh tử đạo là những chứng nhân của Đức Ái.
4. Vẻ đẹp của tử đạo Kitô giáo
Ý nghĩa quan trọng nhất của sự tử đạo Kitô giáo là vẻ đẹp tuyệt hảo của tình yêu tự hiến. Vị tử đạo không phải là người tạo ra sự chết, nhưng là người đón nhận cái chết nhân danh lòng Tin-Cậy- Mến. Vị tử đạo không phải là người tự sát, vì các ngài yêu quý hồng ân sự sống của bản thân và tha nhân. Vị tử đạo không phải là siêu nhân muốn lập thành tích anh dũng, vì các ngài luôn sống khiêm hạ trong mắt Chúa. Vị tử đạo chịu đau đớn cách kiên nhẫn mà không bao giờ ước muốn sự dữ và chết chóc cho những kẻ tra tấn mình, những kẻ hành động bởi lòng thù ghét Kitô giáo hay những lý do khác. Vị tử đạo là người biết chuyển hóa nỗi khổ đau chết chóc của thập giá thành hành động yêu thương cứu sống. Đó là vẻ đẹp của tử đạo Kitô giáo.
Mẫu gương cho hành động tử đạo ấy chính là Đức Kitô. Chính Người đã cam chịu những lăng nhục trong thinh lặng, tha thứ cho những kẻ sát nhân (x. Lc 23,34), và hoàn toàn tự do đón nhận cái chết: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Vì Người đến trần gian là để “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Và theo mẫu gương tình yêu tự hiến cứu độ của Người, Giáo hội từ thời sơ khai cho đến ngày nay, luôn có những người nam, nữ dõi bước chân Người để làm chứng cho tình yêu cứu độ của Người.
Chính công đồng Va-ti-ca-nô II đã xác nhận vẻ đẹp trổi vượt của tình yêu tự hiến cứu độ: “Vì Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu của Người bằng cách hy sinh mạng sống vì chúng ta, nên không ai có tình yêu cao cả hơn người hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh chị em (x. 1 Ga 3,16; Ga 15,13). Một số Kitô hữu đã được gọi trong thời sơ khai và sẽ còn được gọi mãi để làm chứng cho tình yêu ấy cách cao cả nhất trước mặt mọi người, nhất là trước mặt những kẻ đang bách hại mình. Vì tử đạo là hành vi làm cho người môn đệ nên giống Thầy mình, Đấng đã tình nguyện chấp nhận cái chết để cứu độ thế giới, và được nên đồng hình đồng dạng với Người trong việc đổ máu, nên Giáo hội coi đó là ơn trổi vượt và là sự xác nhận cao quý nhất về đức ái” (LG 42).
Vì thế, các thánh tử đạo mặc lấy vẻ đẹp tuyệt hảo. Các ngài nên xinh đẹp vì được kết hợp với tình yêu tự hiến của Đức Kitô và phản chiếu trung thực tình yêu ấy bằng chính mạng sống mình. Cũng chính Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI đã đưa ra một định nghĩa khác về tử đạo, mang tính tổng hợp cả ba nhân đức đối thần, trong đó Đức Ái được tô điểm như vẻ đẹp rực rỡ của tử đạo Kitô giáo, vẻ đẹp của tình yêu thần linh: “Vị tử đạo là một người hoàn toàn tự do, tự do đối với quyền lực, đối với thế giới; một người tự do dâng hiến trọn mạng sống cho Thiên Chúa qua một hành vi duy nhất và quyết định, và phó thác trong tay Đấng Sáng Tạo và Cứu Chuộc đời mình trong thái độ Tin, Cậy, Mến tuyệt đỉnh; vị tử đạo hy sinh mạng sống mình để được kết hợp trọn vẹn với Hy tế của Chúa Kitô trên Thập Giá. Tắt một lời, tử đạo là một cử chỉ yêu thương tuyệt hảo đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa”[12].
II. GIÁO HỘI VIỆT NAM MỪNG NĂM THÁNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
Năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là thời gian thuận lợi để chúng ta “nhìn lại quá khứ để tạ ơn Chúa và lắng nghe bài học của lịch sử, nhìn vào hiện tại để nhận diện những thuận lợi và thách đố, nhìn tới tương lai để cùng nhau canh tân đời sống và xây dựng Giáo Hội theo đúng thánh ý Thiên Chúa”[13].
Nói đến lịch sử, chúng ta thường nghĩ ngay đến quá khứ. Mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc đều có quá khứ của mình. Và chúng ta thấy rõ quá khứ là thành phần quan trọng tạo nên căn tính của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc ở hiện tại và cả tương lai. Vì có quá khứ, nên những thời điểm quan trọng thường được nhớ đến: những niềm hạnh phúc, những nỗi xót xa, những hạnh ngộ, những chia lìa, những được mất… Chúng ta gọi đó là ký ức lịch sử. Ký ức lịch sử giúp mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc hiểu rõ chính mình hơn ở hiện tại.
Cũng vậy, nói về lịch sử Giáo hội Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Người công giáo Việt Nam rất yêu mến các ngài. Các ngài được tôn kính như một di sản Đức Tin, Đức Cậy và Đức Ái, một căn tính công giáo Việt Nam giữa lòng dân tộc Việt Nam. Nhìn các cộng đoàn công giáo Việt Nam trong nước cũng như hải ngoại sốt sắng tôn vinh các ngài, chúng ta càng thêm xác tín điều đó.
Thật vậy, làm sao chúng ta không nghĩ tới Các Thánh Tử Đạo Việt Nam với niềm cảm mến sâu xa và sự ngưỡng vọng lớn lao về chứng tá anh dũng của các ngài: yêu Chúa và yêu người đến hiến dâng cả mạng sống. Việc Giáo hội Công giáo Việt Nam tưởng nhớ các ngài là rất cần thiết, vì nếu không, Giáo hội sẽ quên đi quá khứ của mình, và như thế sẽ quên đi cả căn tính công giáo của mình, như thể Giáo hội tự mình mà có, không phải mắc nợ đối với ai, cả với giá máu của các thánh tử đạo. Khả năng vô ơn ở đây đồng nghĩa với việc quên đi những chứng tá Đức Tin, Đức Cậy và Đức Ái, đặc biệt là tình yêu đến cùng của các thánh tử đạo, cũng là chứng tá về tình yêu của Thiên Chúa dành cho Giáo hội tại Việt Nam.
Nếu đời sống mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc gắn liền với quá khứ, đời sống ấy cũng không thể thiếu tương lai. Nói đến tương lai là nói đến những khát vọng, những kiếm tìm, những dự tính, những định hướng, những xây đắp, những điều sẽ xảy đến. Những thành tựu lớn thường khởi sự từ những lý tưởng lớn, mục đích cao cả và định hướng rõ ràng. Mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc nếu không có lý tưởng để sống, không có mục đích để đạt đến, không có động lực để phấn đấu, sẽ không có tương lai. Không có tương lai thì rất khó sống ở hiện tại, thậm chí dễ rơi vào tuyệt vọng.
Có thể nói đời người là một chuyến đi về tương lai. Cho nên người Việt Nam chúng ta gọi là đường đời. Đường đời không phải là một con đường vật lý, không gian, nhưng là nẻo đường tâm linh của một kiếp người. Đó là nẻo đường của những chọn lựa nhân bản, lý tưởng sống, niềm tin tôn giao… và là nẻo đường để đi và đến.
Người Việt Nam gọi tôn giáo là đạo. Đạo là đường. Chúa Giêsu nói: ‘“Chính Thầy là con đường…” (Ga 14,6). Nên Kitô giáo chúng
ta cũng là một nẻo đường tâm linh, nẻo đường đi về với Thiên Chúa là Cha. Đường là để đi và để đến. Nhưng không phải lúc nào người ta cũng đi và cũng đến. Vì không nhớ đường làm sao đi, không đi làm sao đến? Có khi lên đường đi rồi nhưng chưa chắc đã đến, vì có thể quên đường, lạc đường, lạc địa chi… Muốn đến bến bờ tâm linh giả thiết người ta phải biết đường tâm linh, biết cùng đích tâm linh và luôn ghi nhớ trong lòng. Chúng ta gọi đó là ký ức tâm linh. Ký ức tâm linh chính là việc cử hành ở hiện tại đời sống tâm linh của mình.
Đời sống của Giáo hội Việt Nam cũng thế. Mỗi người công giáo Việt Nam cần phải có ký ức tâm linh, phải biết và nhớ nẻo đường tâm linh của đời mình. Chiều kích tâm linh của việc tưởng nhớ bắt nguồn trong chính đức tin Kitô giáo. Vì đức tin được nuôi dưỡng và củng cố qua việc tưởng niệm Đức Kitô chết và phục sinh, nghĩa là việc cử hành Thánh Thể. Chẳng bao giờ có đức tin trong thực tiễn mà không có một cộng đoàn những người tin. Chẳng bao giờ có việc thực hành đức tin mà không có một truyền thống sống động của một cộng đoàn dẫn chúng ta đi vào mầu nhiệm đức tin. Đức tin luôn được truyền thụ qua một cộng đoàn trung gian, luôn được sinh ra từ ký ức sống động của một cộng đoàn giáo hội.
Làm sao chúng ta có thể tin Thiên Chúa mà không ý thức về sự cần thiết của ký ức tâm linh về chứng từ Đức Tin, Đức Cậy và Đức Ái nơi các thánh tử đạo? Làm sao chúng ta có thể sống ký ức tâm linh về các ngài mà không cử hành mầu nhiệm Đức Tin, Đức Cậy và Đức Ái? Tuy nhiên, ký ức tâm linh Kitô giáo không thể được coi như một truyền thống đóng kín của một quá khứ xa xôi. Việc tưởng nhớ Đức Kitô chết và phục sinh là ký ức tâm linh, luôn bao hàm một chương trình sống cho hiện tại và một định hướng cho tương lai mãi đến ngày Chúa lại đến: “Lạy Chúa, mỗi lần ăn bánh và uống chén này, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa đến”.
Quá khứ và tương lai là thành phần của đời sống, nhưng sống phải thực tế, đó là đời sống hiện tại. Dù quá khứ có thế nào, dù tương lai có ra sao, vấn đề của chúng ta là sống hiện tại của đời mình. Chúng ta sống những vấn đề của chúng ta hôm nay, chứ không phải những vấn đề của quá khứ xa xôi của tổ tiên, cũng chẳng phải tương lai mơ hồ của những thế hệ chưa đến. Chúng ta phải sống đời sống mình hôm nay, với những thuận lợi và thách đố.
Nhưng không phải là một hiện tại đoạn tuyệt với quá khứ và dửng dưng với tương lai. Mỗi người chúng ta đều thừa hưởng một di sản bản năng và một di sản văn hóa từ tổ tiên. Di sản bản năng hiểu là chính thân xác chúng ta đây: dòng máu đang lưu chuyển trong cơ thể chúng ta, nụ cười, ánh mắt, giọng nói, dáng đi, trí thông minh, các năng khiếu. Tất cả những thứ ấy đều ghi đậm dấu ấn của tổ tiên, điều mà ngày nay chúng ta gọi là gien di truyền.
Di sản văn hóa hiểu là tất cả những giá trị nhân bản, văn hoá, tinh thần và tâm linh mà chúng ta thừa hưởng: ngôn ngữ, nền giáo dục, lối sống đạo đức, lý tưởng trong cuộc đời, niềm tin tôn giáo… Tất cả những điều đó được truyền thụ cho chúng ta từ tổ tiên bằng con đường giáo dục, qua các thế hệ. Qua các thế hệ, nghĩa là chưa phải chấm dứt với thế hệ mà chúng ta đang sống. Chúng ta còn có trách nhiệm phải truyền thụ di sản ấy cho các thế hệ tương lai.
Việc thực hiện ở hiện tại một việc khởi sự từ quá khứ, nhắm tới thành tựu tương lai, chúng ta gọi là ký ức luân lý. Ký ức luân lý hệ tại ở việc hiểu thấu ý nghĩa của những biến cố quá khứ, một ý nghĩa có thể gợi hứng cho những hành vi hiện tại, nhằm thực hiện những định hướng tương lai của cuộc đời. Đó là một hành vi phân định luân lý.
Khi tưởng nhớ các thánh tử đạo, chúng ta nhắc nhớ những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ nhằm khám phá giá trị thường hằng của những sự kiện đó, một giá trị mang lại ý nghĩa cho đời sống Kitô giáo hiện tại và tương lai của chúng ta. Điều cốt yếu đối với ký ức luân lý là làm nổi bật giá trị của những cố gắng luân lý, của các nhân đức đối thần trong khi thực hiện việc tưởng nhớ. Đó là cố gắng nhớ lại những bổn phận đã bị lãng quên hay thiếu sót, sửa chữa những lỗi lầm đối với tiền nhân của chúng ta trong đời sống Tin-Cậy-Mến nếu có, gia tăng việc sống vẻ đẹp của tử đạo Kitô giáo mà tiền nhân để lại.
Hơn nữa, kinh nghiệm đau đớn về sự tàn bạo của quá khứ đòi buộc chúng ta phải nhớ đến những nạn nhân của sự dữ tiềm ẩn, và phải phản kháng theo chiều tích cực, nghĩa là bằng mọi cách có thể loại bỏ đi những sự tàn bạo có thể xảy đến cho con người Việt Nam, cho người công giáo Việt Nam, cho Giáo hội Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam hôm nay. Ký ức về những khổ đau trải qua, những đàn áp phải chịu, những cố gắng trung kiên của các thánh tử đạo phải làm vang lên nơi tâm trí của mỗi chúng ta lời này: chúng ta đừng bao giờ tàn bạo như thế nữa và hãy đối xử với nhau như đồng bào và đồng loại. Chính ở điểm này mà chúng ta nhận ra sự cần thiết của chiều kích hoán cải là rất quan trọng trong Năm Thánh.
Lm. Phaolô Nguyễn Thành Sang
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 107 (Tháng 7 & 8 năm 2018)
(Xin xem tiếp Chúa Nhật tuần sau)
[1] HĐGMVN, Thư công bố Năm Thánh kỷ niệm 30 năm ngày tuyên phong hiển thánh của 117 vị Thánh Tử Đạo tại Việt Nam (1988 – 2018).
[2] X. ĐGH. Phan-xi-cô, Thông điệp Lumen fidei, số 7.
[3] ĐGH. Phan-xi-cô, Thông điệp Lumen fidei, số 56.
[4] ĐGH. Bê-nê-đic-tô XVI, Thông điệp Spe salvi, số 1.
[5] Ibid., số 39.
[6] Ibid., số 32.
[7] Ibid., số 32.
[8] Ibid., số 37.
[9] ĐGH. Bê-nê-đic-tô XVI, Angelus ngày 26 tháng 12 năm 2007.
[10] X. ĐGH. Bê-nê-đic-tô XVI, Audience ngày 13 tháng 8 năm 2008.
[11] ĐGH. Bê-nê-đic-tô XVI, Angelus ngày 26 tháng 12 năm 2007.
[12] ĐGH. Bê-nê-đic-tô XVI, Audience ngày 11 tháng 8 năm 2010.
[13] HĐGMVN, Thư gửi cộng đồng Dân Chúa công bố Năm Thánh 2010, số 1.