Thánh nữ Zedislava de Lemberk, giáo dân. Lễ nhớ (Phụng vụ Dòng Đaminh)
Memorial of Saint Elizabeth Ann Seton, Religious (USA)
SỐNG LỜI CHÚA
GOSPEL : Jn 1:35-42
John was standing with two of his disciples,
and as he watched Jesus walk by, he said,
“Behold, the Lamb of God.”
The two disciples heard what he said and followed Jesus.
Jesus turned and saw them following him and said to them,
“What are you looking for?”
They said to him, “Rabbi” (which translated means Teacher),
“where are you staying?”
He said to them, “Come, and you will see.”
So they went and saw where he was staying,
and they stayed with him that day.
It was about four in the afternoon.
Andrew, the brother of Simon Peter,
was one of the two who heard John and followed Jesus.
He first found his own brother Simon and told him,
“We have found the Messiah,” which is translated Christ.
Then he brought him to Jesus.
Jesus looked at him and said,
“You are Simon the son of John;
you will be called Cephas,” which is translated Peter.
Bài đọc :
Ca nhập lễ : Is 9,2
Dân đang lần bước giữa tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng ;
đám người sống trong vùng bóng tối
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Bài đọc 1 : 1 Ga 3,7-10
Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không thể phạm tội.
Bài trích thư thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ.
7Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,
đừng để ai làm cho anh em đi lạc đường.
Ai sống công chính, kẻ ấy là người công chính,
như Đức Giê-su là Đấng Công Chính.
8Ai phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ,
vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu.
Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện,
là để phá huỷ công việc của ma quỷ.
9Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội,
vì mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy,
và người ấy không thể phạm tội,
vì đã được Thiên Chúa sinh ra.
10Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt
con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ :
phàm ai không sống công chính
thì không thuộc về Thiên Chúa ;
ai không yêu thương anh em mình, thì cũng vậy.
Đáp ca : Tv 97,1.7-8.9 (Đ. c.3cd)
Đ. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
vì Người đã thực hiện bao kỳ công.
Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh,
nhờ cánh tay chí thánh của Người.
Đ. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
7Gầm vang lên, hỡi biển cả cùng muôn hải vật,
địa cầu với toàn thể dân cư !
8Sông lạch ơi, vỗ tay đi nào,
đồi núi hỡi, reo mừng trước tôn nhan Chúa.
Đ. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
9Vì Người ngự đến xét xử trần gian,
Người xét xử địa cầu theo đường công chính,
xét xử muôn dân theo lẽ công bình.
Đ. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Tung hô Tin Mừng : Hr 1,1-2
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng : Ga 1,35-42
Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
35 Khi ấy, ông Gio-an đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. 36 Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói : “Đây là Chiên Thiên Chúa.” 37 Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. 38 Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi : “Các anh tìm gì thế ?” Họ đáp : “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu ?” 39 Người bảo họ : “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.
40 Ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. 41 Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và nói : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). 42 Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói : “Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô).
Ca hiệp lễ : 1 Ga 1,2
Ngôi Lời là sự sống
vẫn hướng về Chúa Cha
nay đã xuất hiện cho chúng ta được thấy.
SUY NIỆM
GIỚI THIỆU CHÚA CHO NHAU
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Chúa Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo hội, được miễn khỏi trách vụ cao cả là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc.”
Mở đầu Tin Mừng hôm nay, Gioan Tiền Hô đã giới thiệu cho hai môn đệ đến với Chúa. Rồi đến lượt Anrê đem em mình là Phêrô đến giới thiệu với Đức Giêsu. Những sự giới thiệu này mang tính tiếp nối trong sứ vụ truyền giáo của toàn thể Hội Thánh.
Sứ vụ truyền giáo là một sự tiếp nối trường kỳ. Khi chúng ta được phúc đón nhận Tin Mừng, thì đến lượt chúng ta cũng phải làm cho Tin Mừng đó được lan toả đến mọi người xung quanh chúng ta và hết những ai chúng ta gặp gỡ.
(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)
LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY
Lạy Chúa, trên trái đất này, chúng con là đôi tay, là tiếng nói, là trái tim của Chúa. Xin cho chúng con trở nên những người nhiệt thành giới thiệu Đức Giêsu cho những ai chúng con gặp gỡ hằng ngày. Amen.
TU ĐỨC SỐNG ĐẠO
Thánh nữ Zedislava de Lemberk, giáo dân (1220 – 1252)
Lễ nhớ
Zedislava Berka, sinh khoảng năm 1220, tại Krizanov (Moravia, Czech), là con đầu lòng của một gia đình điền chủ giàu có và tốt lành. Thân phụ của chị, ông Prybislav, là vương hầu thành Veveri và Brno, đồng thời là vị đại diện của vua Wenceslaus I (Venxétlao). Ông đã lập một nhà thương, tu viện và đan viện cho các anh em Hèn Mọn ở Brno (Brơnô), và đan viện Xitô ở Zoár (Dô-a). Thân mẫu chị, bà Sibilla, từng hầu cận hoàng hậu Ba Lan là thánh nữ Kuneguda.
Năm 20 tuổi, Zedislava kết hôn với vị vương hầu thành Lemberk là Havel Markvartice. Ông rất được nhà vua tín cẩn và là người đi chinh phục miền nam Bohemia cho Ba Lan. Thừa hưởng một gia sản tinh thần phong phú, Zedislava đã thể hiện di sản tốt lành ấy trong đời sống gia đình cũng như tại những nơi chị hiện diện. Những người được hưởng lợi trước hết là phu quân và bốn người con của chị, rồi đến các gia nhân, đồng bào và những ai nghèo khổ bệnh tật. Cùng với chồng, chị chăm lo cho việc truyền bá Tin Mừng bằng cách cộng tác vào hoạt động của các anh em Giảng Thuyết và xây dựng cho anh em các tu viện ở Giablonae.
Chị Zedislava qua đời tại Giablonae năm 1252 và được mai táng trong nhà thờ thánh Lôrenxô của anh em Đa Minh. Nhà thờ này được nâng lên hàng vương cung thánh đường để kỷ niệm biến cố Đức Gioan Phaolô II tôn phong chị lên hàng hiển thánh vào ngày 21 tháng 5 năm 1995, ở Olomouc (Moravia). Các sử gia thời trung cổ đã gọi chị là “Lệnh bà của đời sống thánh thiện”, ca tụng đức ái giàu hoa trái và lòng chung thuỷ hôn nhân của chị. Từ nhiều thế kỷ qua, dân chúng Czech đã tôn 49 kính chị như vị bổn mạng của đất nước, gương mẫu của các bà mẹ và là vị thánh hằng rộng rãi thi ân giáng phúc.
Phụng vụ Dòng Anh Em Giảng Thuyết
Thánh Êlizabeth Anna Sitôn
“Mẹ Sitôn” là danh hiệu mà mọi người đều biết khi Êlizabeth qua đời ngày mùng 4 tháng Giêng năm 1821 ở Emmitsbơ, Maryland. Cuộc sống đầy những ngạc nhiên bất ngờ đã trao tặng thánh nữ danh hiệu đó.
Êlizabeth sinh ngày 28 tháng Tám năm 1774 tại thành phố Niu Gioóc. Thân sinh của ngài, ông Richard Bơlây, là một bác sĩ danh tiếng. Thân mẫu của Êlizabeth, là bà Catarina, đã lìa đời khi Êlizabeth còn rất trẻ. Êlizabeth là một tín hữu theo đạo Tin lành, thuộc giáo phái Epiocopan. Khi còn là thiếu nữ, Êlizabeth đã làm nhiều việc tốt để giúp đỡ những người nghèo khổ.
Năm 1794, Êlizabeth kết hôn với William Sitôn. Ông là một lái buôn giàu có và là chủ của một đoàn tàu. Êlizabeth, William và năm người con cùng chung sống hạnh phúc bên nhau. Nhưng đột nhiên chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, William mất hết gia sản và sức khỏe ông bị suy giảm. Người vợ của ông nghe nói khí hậu ở bên nước Ý có thể giúp ông khá hơn. Vì vậy, Êlizabeth, William và Anna, đứa con gái lớn nhất của họ, đã đáp tàu sang Ý. Nhưng sau đó ít lâu, William qua đời. Êlizabeth và Anna ở lại Ý như những người khách của gia đình Filicchi. Những người trong gia đình này rất tử tế, tốt bụng. Họ cố gắng xoa dịu nỗi đau đớn của Êlizabeth và Anna bằng cách chia sẻ cho hai người nghe biết về tình yêu thâm sâu của họ trong đức tin Công giáo. Êlizabeth trở về nhà ở Niu Gioóc với ý định sẽ trở nên một tín hữu Công giáo. Gia đình và bạn bè của ngài không hiểu được điều đó nên họ rất lấy làm khó chịu; thế nhưng với lòng can đảm, Êlizabeth cứ tiến hành điều mình đã quyết định. Êlizabeth đã gia nhập Giáo hội Công giáo ngày 4 tháng Ba năm 1805.
Ít năm sau, người ta mời Êlizabeth đến mở một trường nữ sinh ở Baltimo. Ở đó, Êlizabeth đã quyết định sống như một nữ tu. Cũng có nhiều chị em đến gia nhập nhóm của ngài, gồm cả cô em gái và người chị dâu nữa. Các con của Êlizabeth, Anna và Catarina cũng lần lượt tham gia nhóm ấy. Họ trở thành hội Nữ Tu Bác Ái Người Mỹ và người ta tôn tặng cho Êlizabeth tước hiệu “Mẹ Sitôn.” Êlizabeth trở nên nổi tiếng. Ngài đã thiết lập nhiều trường học Công giáo và một số viện mồ côi. Êlizabeth cũng dự tính sẽ lập một bệnh viện và viện này đã được khai trương sau khi ngài qua đời.
Êlizabeth yêu thích việc viết lách và ngài đã chuyển dịch một số sách giáo khoa từ tiếng Pháp sang tiếng Anh. Nhưng đặc biệt nhất là thánh nữ thích việc viếng thăm những người nghèo khổ, đau yếu.
Đức thánh cha Phaolô VI đã tôn phong Êlizabeth lên bậc hiển thánh ngày 14 tháng Chín năm 1975.
Nếu có điều gì xảy ra làm thay đổi cuộc sống của chúng ta từ hạnh phúc sung sướng sang khó khăn bế tắc, chúng ta hãy quay ánh nhìn về Thiên Chúa như Mẹ Sitôn và kêu xin Người giúp đỡ. Thiên Chúa có thể giúp chúng ta nhận thấy rằng những khó khăn đó có thể làm sáng tỏ những tài năng ẩn giấu bên trong chúng ta như thế nào. Và rồi chúng ta sẽ hoàn thành được điều chúng ta chẳng bao giờ mơ tới.
http://www.paolinevn.org