Monday of the Fifth Week of Easter
SỐNG LỜI CHÚA
GOSPEL : Jn 14:21-26
Jesus said to his disciples:
“Whoever has my commandments and observes them
is the one who loves me.
Whoever loves me will be loved by my Father,
and I will love him and reveal myself to him.”
Judas, not the Iscariot, said to him,
“Master, then what happened that you will reveal yourself to us
and not to the world?”
Jesus answered and said to him,
“Whoever loves me will keep my word,
and my Father will love him,
and we will come to him and make our dwelling with him.
Whoever does not love me does not keep my words;
yet the word you hear is not mine
but that of the Father who sent me.
“I have told you this while I am with you.
The Advocate, the Holy Spirit
whom the Father will send in my name —
he will teach you everything
and remind you of all that I told you.”
LỄ và CÁC BÀI ĐỌC
Ca nhập lễ
Vị Mục Tử nhân lành đã sống lại,
chính Người đã thí mạng vì con chiên,
và vui lòng chịu chết
vì đoàn chiên của Người. Ha-lê-lui-a.
Bài đọc 1 : Cv 14,5-18
Chúng tôi loan Tin Mừng cho các bạn, là hãy bỏ những cái hão huyền, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
5 Hồi ấy, tại I-cô-ni-ô, những người ngoại và những người Do-thái, cùng với các thủ lãnh của họ, mưu toan làm nhục và ném đá ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. 6 Biết thế, hai ông lánh sang các thành miền Ly-cao-ni-a là Lýt-ra, Đéc-bê và các vùng phụ cận ; 7 và tại đó các ông tiếp tục loan báo Tin Mừng.
8 Tại Lýt-ra, có một người bại hai chân ngồi đó ; anh ta bị què từ khi lọt lòng mẹ, chưa hề đi được bước nào. 9 Anh nghe ông Phao-lô giảng. Ông nhìn thẳng vào anh và thấy anh có lòng tin để được cứu chữa, 10 thì lớn tiếng nói : “Anh trỗi dậy đi, hai chân đứng thẳng !” Anh đứng phắt dậy và đi lại được.
11 Thấy việc ông Phao-lô làm, đám đông hô lên bằng tiếng Ly-cao-ni-a : “Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta !” 12 Họ gọi ông Ba-na-ba là thần Dớt, ông Phao-lô là thần Héc-mê, vì ông là người phát ngôn. 13 Thầy tư tế đền thờ thần Dớt ở ngoại thành đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành, và cùng với đám đông, muốn dâng lễ tế. 14 Nghe biết được, hai tông đồ Ba-na-ba và Phao-lô xé áo mình ra, xông vào đám đông mà kêu lên : 15 “Hỡi các bạn, các bạn làm gì thế này ? Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân phận với các bạn. Chúng tôi loan Tin Mừng cho các bạn, là hãy bỏ những cái hão huyền này đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó. 16 Trong những thế hệ đã qua, Người để cho muôn dân đi theo đường lối của họ. 17 Tuy vậy Người không ngừng làm chứng cho mình, khi thi ân giáng phúc, ban mưa từ trời và mùa màng sung túc cho các bạn, và cho các bạn được no lòng, được an vui.” 18 Nói vậy mà hai ông vẫn còn phải vất vả mới can được đám đông không dâng lễ tế cho hai ông.
Đáp ca : Tv 113B,1-2.3-4.15-16 (Đ. x. c.1)
Đ. Lạy Chúa, xin đừng làm rạng rỡ chúng con,
nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ.
1Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng lạy Chúa, xin đừng,
nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ,
bởi vì Ngài thành tín yêu thương.
2Sao chư dân lại nói : “Thiên Chúa chúng ở đâu ?”
Đ. Lạy Chúa, xin đừng làm rạng rỡ chúng con,
nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ.
3Thiên Chúa chúng ta ở trên trời,
muốn làm gì là Chúa làm nên.
4Tượng thần chúng chỉ là vàng bạc,
chỉ do tay người thế tạo thành.
Đ. Lạy Chúa, xin đừng làm rạng rỡ chúng con,
nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ.
15Nguyện xin Chúa, Đấng dựng nên đất trời,
xuống muôn phúc lành cho anh em.
16Trời là trời của Chúa,
còn đất thì Chúa cho con cái loài người.
Đ. Lạy Chúa, xin đừng làm rạng rỡ chúng con,
nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ.
Tung hô Tin Mừng : Ga 14,26
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều, và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng : Ga 14,21-26
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
21 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”
22 Ông Giu-đa, không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian ?” 23 Đức Giê-su đáp : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.”
Ca hiệp lễ : Ga 14,27
Chúa nói : “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy, Thầy không ban theo kiểu cách của thế gian.” Ha-lê-lui-a.
SUY NIỆM
MỘT CHÚA BA NGÔI
Trong một lớp học giáo lý, giáo sư hỏi các học viên rằng: “Mầu nhiệm Phục Sinh và Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nào quan trọng hơn?”. Câu trả lời là Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Vì từ mầu nhiệm này mới có các mầu nhiệm khác.
Lời của Đức Giêsu hôm nay mở đường dẫn chúng ta vào cuộc sống với Thiên Chúa Ba Ngôi. Con người yêu mến Đức Giêsu, giữ các điều răn của Người thì thấy được tình yêu của Chúa Cha và lãnh nhận ơn Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ được Chúa Cha sai đến. Như vậy, Đức Giêsu làm cho con người trở thành Đền Thờ của Chúa Ba Ngôi.
Trong xã hội, mỗi người chính là các tế bào. Đức Giêsu muốn mỗi người, như từng tế bào đó, kết hợp lại với nhau, yêu mến, thực thi lời Người dạy để cùng nhau trở thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi.
(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)
LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY
Lạy Chúa Phục Sinh, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con nhận biết và yêu mến Chúa. Xin ban cho chúng con Thánh Thần của Chúa để chúng con biết yêu thương nhau và trở thành Đền Thờ của Chúa Ba Ngôi. Amen.
TU ĐỨC SỐNG ĐẠO
Tiếp kiến chung (11/05): Một tuổi trẻ đáng ngưỡng mộ, một tuổi già quảng đại
Sáng thứ Tư 11/05, tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh đã có buổi tiếp kiến chung hằng tuần với bài giáo lý tiếp theo trong loạt bài về tuổi già. Đức Thánh Cha đặt câu hỏi của những người nghỉ hưu, công việc kết thúc: “Tôi sẽ làm gì bây giờ khi cuộc sống của tôi sẽ trống rỗng, không còn những điều vốn đã lấp đầy trong thời gian dài?”
Đoạn Sách Thánh được đọc trước bài giáo lý được trích từ sách Giu-đi-tha.
Sau những ngày đó, ai nấy trở về phần đất gia nghiệp của mình. Bà Giu-đi-tha trở lại Bai-ty-lu-a và cư ngụ trong phần đất bà vẫn có. Ngay trong buổi sinh thời, tiếng tăm bà đã lừng lẫy khắp nơi. Danh tiếng bà mỗi ngày một thêm lừng lẫy. Bà sống tại nhà chồng bà, tuổi đời rất cao, thọ được một trăm lẻ năm tuổi. Bà trả tự do cho người nữ tỳ. Cuối cùng bà qua đời ở Bai-ty-lu-a và được chôn cất trong hang mộ bên cạnh ông Mơ-na-se, chồng bà. Nhà Ít-ra-en khóc thương bà suốt bảy ngày. Trước khi nhắm mắt, bà Giu-đi-tha đã phân phát của cải cho tất cả bà con bên chồng cũng như cho thân quyến của bà. (Gđt 16,21.23-24)
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay chúng ta sẽ nói về Giu-đi-tha, một nữ anh hùng trong Kinh Thánh. Phần kết của cuốn sách mang tên bà – chúng ta vừa nghe – tóm tắt phần cuối cuộc đời của người phụ nữ này, người đã bảo vệ Israel khỏi kẻ thù. Giu-đi-tha là một góa phụ Híp-ri trẻ tuổi và nhân đức, nhờ đức tin, sắc đẹp và sự khôn khéo của mình, đã cứu thành Bai-ty-lu-a và dân tộc Giuđa khỏi vòng vây của Hô-lô-phéc-nê, tướng của Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua nước Át-sua, một kẻ thù hống hách và khinh thường Thiên Chúa. Và như vậy, với cách hành động thông minh của mình, người phụ nữ này có khả năng giết chết bạo chúa chống lại đất nước mình. Người phụ nữ này dũng cảm, nhưng bà có một đức tin …
Sau cuộc phiêu lưu lớn mà bà là nhân vật chính, Giu-đi-tha trở về sống ở thành phố của bà, Bai-ty-lu-a, nơi đây bà sống một tuổi già đẹp, đến 105 tuổi. Điều này cũng xảy ra với nhiều người: đôi khi sau một cuộc sống làm việc căng thẳng, sau một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, hoặc một trong những cống hiến lớn lao. Sự anh hùng không chỉ là sự kiện trọng đại được chú ý, như vụ Giu-đi-tha đã giết chết bạo chúa: mà sự anh hùng thường được tìm thấy ở tình yêu bền bỉ dành cho một gia đình khó khăn và hỗ trợ một cộng đồng đang bị đe dọa.
Giu-đi-tha đã sống hơn một trăm tuổi, một phúc lành đặc biệt. Nhưng ngày nay cũng không hiếm người sống rất nhiều năm sau khi nghỉ hưu. Cần diễn giải thế nào, làm sao để tận dụng khoảng thời gian này của chúng ta? Tôi sẽ nghỉ hưu hôm nay, và sẽ còn nhiều năm nữa, và tôi có thể làm gì trong những năm này? Làm thế nào để tôi có thể lớn thêm – về tuổi tác thì tự nó, nhưng làm thế nào tôi có thể lớn thêm hơn về quyền bính, sự thánh thiện và khôn ngoan?
Đối với nhiều người, viễn cảnh nghỉ hưu cũng là viễn cảnh được nghỉ ngơi xứng đáng và mong muốn thoát khỏi các hoạt động đòi hỏi và mệt mỏi. Nhưng cũng xảy ra rằng nó là sự kết thúc của công việc vốn thể hiện một nguồn quan tâm và được mong đợi với một số lo lắng: “Tôi sẽ làm gì bây giờ khi cuộc sống của tôi sẽ trống rỗng những điều vốn đã lấp đầy trong thời gian dài?”. Đây là vấn đề. Công việc hàng ngày cũng có nghĩa là một tập hợp các mối quan hệ, sự hài lòng trong việc kiếm sống, thực thi một vai trò, một sự cân nhắc xứng đáng, một khoảng thời gian tròn đầy ngoài những giờ làm việc đơn giản.
Tất nhiên, có một sự dấn thân vui vẻ và không mệt mỏi trong việc chăm sóc các cháu, và ngày nay ông bà đóng một vai trò rất lớn trong gia đình để giúp nuôi dạy các cháu; nhưng chúng ta biết rằng ngày nay ngày càng ít trẻ em được sinh ra, và cha mẹ thường ở xa hơn, phải đi lại nhiều hơn, với hoàn cảnh gia đình và công việc không thuận lợi. Thậm chí đôi khi họ miễn cưỡng với việc giao phó không gian giáo dục của các cháu cho ông bà, và chỉ nhờ những gì rất cần sự hỗ trợ. Nhưng có người nói với tôi, với một nụ cười khểnh, rằng: “Ngày nay, trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện tại, ông bà càng quan trọng hơn, vì ông bà có lương hưu”. Họ nghĩ như thế. Có những nhu cầu mới, cũng trong lĩnh vực giáo dục và các mối quan hệ của cha mẹ, đòi hỏi chúng ta phải định hình lại liên minh truyền thống giữa các thế hệ.
Nhưng, chúng ta tự hỏi: liệu chúng ta có đang thực hiện nỗ lực “phục hồi” này không? Hay đơn giản là chúng ta phải chịu sức ì của các điều kiện kinh tế và vật chất? Trên thực tế, sự chung sống của nhiều thế hệ đang kéo dài. Chúng ta có đang cố gắng làm cho sự chung sống này trở nên nhân bản hơn, tình cảm hơn, công bằng hơn, trong điều kiện mới của xã hội hiện đại? Đối với ông bà, một phần quan trọng trong thiên chức của họ là hỗ trợ các con trong việc nuôi dạy con cái. Những đứa trẻ học được sức mạnh của sự dịu dàng và tôn trọng đối với sự mong manh. Đây là những bài học không thể thay thế, mà với ông bà, những bài học này sẽ dễ dàng truyền đạt và tiếp nhận hơn. Về phần mình, ông bà học được rằng sự dịu dàng và mong manh không chỉ là dấu hiệu của sự sa sút: đối với những người trẻ, điều này là những bước làm nên con người tương lai.
Giu-đi-tha sớm trở thành góa phụ và không có con cái, nhưng như một phụ nữ lớn tuổi, bà có thể sống một mùa tràn đầy và thanh thản, với ý thức mình đã sống trọn vẹn sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho bà. Đối với bà, đã đến lúc để lại di sản tốt đẹp của trí tuệ, sự dịu dàng, những món quà cho gia đình và cộng đồng: di sản về điều tốt chứ không chỉ về tài sản. Khi chúng ta nghĩ về sự thừa kế, đôi khi chúng ta nghĩ về tài sản, chứ không phải điều tốt đã làm trong tuổi già và đã được gieo trồng, điều tốt đẹp đó là cơ nghiệp tốt nhất mà chúng ta có thể để lại.
Chính ở tuổi già, Giu-đi-tha đã “trả tự do cho người nữ tỳ của bà”. Đây là dấu hiệu của một cái nhìn quan tâm và nhân văn đối với những người đã gần gũi với bà. Người nữ tỳ này đã đồng hành cùng bà trong cuộc phiêu lưu để cắt cổ và chiến thắng bạo chúa. Khi bạn già, bạn mất đi một chút thị giác nhưng cái nhìn bên trong trở nên thấu hiểu hơn: bạn nhìn bằng trái tim. Một người có khả năng nhìn thấy những thứ trước đây lẩn khuất. Người già biết cách nhìn và biết nhìn thấy… Nó là thế này: Chúa không chỉ giao những nén bạc của Người cho người trẻ và người mạnh: Người trao cho tất cả, tuỳ theo khả năng của mỗi người, phù hợp với từng người, ngay cả đối với người già. Cuộc sống của các cộng đoàn của chúng ta phải có khả năng tận hưởng những nén bạc và đặc sủng của nhiều người cao tuổi. Theo biên chế thì họ đã nghỉ hưu, nhưng họ là một gia sản đáng được trân trọng. Điều này đòi hỏi, về phía những người cao tuổi, một sự lưu tâm sáng tạo, một sự để tâm mới, một tấm lòng quảng đại. Các kỹ năng sống hoạt bát trước đây mất đi phần nắm giữ và trở nên nguồn để ban tặng: dạy dỗ, khuyên nhủ, xây dựng, chữa lành, lắng nghe… Ưu tiên cho những người thiệt thòi nhất, những người không có khả năng học tập hoặc những người bị bỏ rơi trong cô đơn của họ.
Bà Giu-đi-tha đã trả tự do cho người nữ tỳ của mình và khiến mọi người chú ý. Khi còn trẻ, bà đã giành được sự kính trọng của cộng đồng bằng lòng dũng cảm của mình. Khi là một người lớn tuổi, bà xứng đáng nhận điều đó bởi sự dịu dàng vốn làm phong phú thêm cho sự tự do và tình cảm của bà. Giu-đi-tha không phải là một người nghỉ hưu buồn sầu, sống trong sự trống vắng của mình: bà là một cụ bà say mê lấp đầy thời gian mà Chúa ban bằng những món quà.
Tôi khuyên anh chị em: trong những ngày này, hãy cầm lấy Kinh Thánh và mở sách Giu-đi-tha: nó nhỏ, anh chị em có thể đọc nó… khoảng 10 trang, không hơn. Hãy đọc câu chuyện về một người phụ nữ can đảm kết thúc như thế, với sự dịu dàng, với lòng bao dung, một phụ nữ cao quý. Và vì vậy tôi ước mong những người bà của chúng ta: can đảm, khôn ngoan và để lại cho con cháu di sản không phải tiền bạc, mà là di sản của trí tuệ, được gieo vào cháu chắt của họ.