THỨ HAI TUẦN XIX THƯỜNG NIÊN
Thánh Maximilianô Maria Kolbê Linh mục, Tử đạo. Lễ nhớ
Memorial of Saint Maximilian Kolbe, Priest and Martyr
SỐNG LỜI CHÚA
GOSPEL : Mt 17:22-27
As Jesus and his disciples were gathering in Galilee,
Jesus said to them,
“The Son of Man is to be handed over to men,
and they will kill him, and he will be raised on the third day.”
And they were overwhelmed with grief.
When they came to Capernaum,
the collectors of the temple tax approached Peter and said,
“Does not your teacher pay the temple tax?”
“Yes,” he said.
When he came into the house, before he had time to speak,
Jesus asked him, “What is your opinion, Simon?
From whom do the kings of the earth take tolls or census tax?
From their subjects or from foreigners?”
When he said, “From foreigners,” Jesus said to him,
“Then the subjects are exempt.
But that we may not offend them, go to the sea, drop in a hook,
and take the first fish that comes up.
Open its mouth and you will find a coin worth twice the temple tax.
Give that to them for me and for you.”
Bài đọc :
Ca nhập lễ : Tv 73,20.19.22.23
Lạy Chúa, giao ước thuở xưa, xin nhìn lại,
đừng mãi mãi bỏ rơi
mạng sống dân nghèo khổ của Ngài.
Lạy Thiên Chúa,
xin đứng lên biện hộ cho Ngài.
Xin đừng quên tiếng những ai tìm kiếm Chúa.
Bài đọc 1 : Đnl 10,12-22
Anh em hãy cắt bì tâm hồn anh em. Anh em phải yêu thương ngoại kiều, vì anh em đã từng là ngoại kiều ở đất Ai-cập.
Bài trích sách Đệ nhị luật.
12 Khi ấy, ông Mô-sê nói với dân : “Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, 13 giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc ?
14 “Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, làm chủ cõi trời và các tầng trời cao nhất, cõi đất và muôn loài trong đó. 15 Nhưng chỉ có cha ông của anh em là được Đức Chúa đem lòng quyến luyến yêu thương ; sau các ngài, giữa muôn dân, Người đã chọn dòng dõi các ngài tức là anh em, như anh em thấy ngày hôm nay. 16 Vậy anh em hãy cắt bì tâm hồn anh em và đừng cứng cổ nữa, 17 vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, là Đấng không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ, 18 là Đấng xử công minh cho cô nhi quả phụ, và yêu thương ngoại kiều, cho họ bánh ăn áo mặc. 19 Anh em phải yêu thương ngoại kiều, vì anh em đã từng là ngoại kiều ở đất Ai-cập. 20 Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ ; anh em phải gắn bó với Người ; anh em sẽ nhân danh Người mà thề ; 21 chính Người là Đấng anh em phải ca tụng ; chính Người là Thiên Chúa của anh em, Đấng đã làm cho anh em những điều lớn lao và khủng khiếp mà chính mắt anh em đã thấy đó. 22 Cha ông của anh em chỉ có bảy mươi người khi xuống Ai-cập, mà bây giờ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em nên nhiều như sao trên trời.”
Đáp ca : Tv 147,12-13.14-15.19-20 (Đ. c.12a)
Đ. Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa !
12Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa !
Này Xi-on, hãy ca ngợi Thiên Chúa của ngươi !
13Then cửa nhà ngươi, Chúa làm cho thêm chắc,
con cái trong thành, Người giáng phúc thi ân.
Đ. Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa !
14Cõi biên cương, Người thiết lập hoà bình,
và cho ngươi no đầy lúa mì tinh hảo.
15Người tống đạt lệnh truyền xuống đất,
lời phán ra, hoả tốc chạy đi.
Đ. Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa !
19Chúa bày tỏ lời Người cho nhà Gia-cóp,
chiếu chỉ luật điều cho Ít-ra-en.
20Chúa không đối xử với dân nào như vậy,
không cho họ biết những điều luật của Người.
Đ. Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa !
Tung hô Tin Mừng : x. 2 Tx 2,14
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được hưởng vinh quang của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng : Mt 17,22-27
Họ sẽ giết chết Người, và Người sẽ trỗi dậy. Con cái được miễn đóng sưu nộp thuế.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
22 Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ tụ họp ở miền Ga-li-lê, Người nói với các ông : “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, 23 họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm.
24 Khi thầy trò tới Ca-phác-na-um, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi ông Phê-rô : “Thầy các ông không nộp thuế sao ?” 25 Ông đáp : “Có chứ !” Ông về tới nhà, Đức Giê-su hỏi đón ông : “Anh Si-môn, anh nghĩ sao ? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế ? Con cái mình hay người ngoài ?” 26 Ông Phê-rô đáp : “Thưa, người ngoài.” Đức Giê-su liền bảo : “Vậy thì con cái được miễn. 27 Nhưng để khỏi làm cớ cho họ sa ngã, anh hãy ra biển thả câu ; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra : anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan ; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh.”
Ca hiệp lễ : Tv 147,12.14
Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa,
Đấng cho ngươi no đầy lúa mì tinh hảo.
SUY NIỆM
MẤT MÀ ĐƯỢC
Một tù nhân người Nam Tư ghi lại cuộc bách hại khủng khiếp tại nước này. Các tù nhân phải đối diện với một sự lựa chọn: hoặc trung thành với niềm tin và chấp nhận hậu quả, hoặc đầu hàng trước thế lực áp bức và tránh được sự tra tấn.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu tiên báo cuộc thương khó lần thứ hai của Người. Sau những đau khổ Đức Giêsu phải chịu, tận cùng là cái chết, thì Người sẽ sống lại vào ngày thứ ba. Đức Giêsu đã để cho người đời giết chết thân xác, nhưng Người đã phục sinh để nhờ đó con người cũng được phục sinh với Người.
Thánh Maximilianô Maria Kolbê mà chúng ta mừng kính hôm nay đã dũng cảm đương đầu với cái chết thể xác để được sự sống về phần hồn, vì ngài tin sẽ đạt được sự sống vĩnh cửu khi trung thành với Chúa.
(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)
LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã chết và đã phục sinh vinh hiển, xin cho con cũng được chết và phục sinh với Chúa trong ngày sau hết. Amen.
TU ĐỨC SỐNG ĐẠO
THÁNH MAXIMILIANÔ MARIA KOLBE
(1894-1941)
1. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Cha Maximilianô Kolbe sinh tại Zdusnka Wola, nước Balan, ngày 8-1-1894. Năm 1907, nhập học tại chủng viện dòng Phanxicô, được gởi qua học ở Roma. Ngày 28-04-1918, thụ phong linh mục. Là một tông đồ nhiệt thành về lòng sùng kính thánh mẫu Maria, Cha Kolbe đã tích cực cổ võ lòng tôn sùng ấy đặc biệt bằng báo chí (Nguyệt san “Người hiệp sĩ của Đức Mẹ Vô Nhiễm”) phát hành một lần tới một triệu số năm 1938) và bằng một trung tâm thánh mẫu. Năm 1930, cha qua Nhật và thành lập một trung tâm tương tự. Năm 1936, cha trở về Balan.
Ngày 1-9-1939, quân đội Đức của Hitler tấn công Balan, mở đầu cho cuộc thế giới chiến tranh thứ II.
Mười ngày sau, mật vụ Đức bắt giam cha Maximilianô Kolbe gần ba tháng. Được trả tự do, cha trở lại đời sống hoạt động tông đồ cho đến ngày 17-2-1941, thì bị bắt lại. Và lần này cha bị giam ở trại tập trung Auschwitz, nơi đã từng tiêu diệt 6 triệu người Do Thái và vô số những người khác trong các phòng hơi ngạt. Cha Kolbe cũng chết tại đó.
30 năm sau, ngày 17-10-1971 tại thánh đường Phêrô, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã long trọng phong cha lên hàng chân phước. Tại buổi lễ này người ta thấy có sự hiện diện của cụ Giasowniczek, người mà trước kia cha Maximilianô Kolbe đã chết thay cho.
Rồi ngày 10-10-1982 Đức Gioan Phaolô II đã phong Ngài lên bậc hiển thánh.
2. CHỨNG NHÂN ANH DŨNG
“Hôm ấy là ngày 30/7/1941, trong nhà giam số 14 tại trại tập trung Auschwitz, nơi mấy tháng trước đó, một nhóm tù nhân vừa được dẫn tới, trong đó có cha Maximilianô Kolbe, tu sĩ dòng Phanxicô Balan. Hôm ấy thiếu mất một tù nhân. Các tử tù biết rằng cứ một tù nhân đào thoát là hai mươi tù cùng trại phải nhịn ăn cho đến chết. Đêm ấy không ai trong khu nhà giam chợp mắt được. Mọi người đều sợ hãi, mặc dù nhiều lúc họ vẫn mong chờ cái chết đến để giải thoát họ.
Chết dưới làn đạn, có lẽ còn chịu được, nhưng chết đói chết khát thật là một cái chết kinh sợ nhất. Từ căn nhà hành hình, phát ra những tiếng la rú rùng rợn. Đêm ấy, cha Kolbe lo an ủi đồng bạn và giải tội cho những ai cần.
Sáng hôm sau khi điểm danh, tên cai ngục đã báo tin người ta đã không tìm lại được kẻ đào thoát. Cả trại 14 đứng im như trời trồng và hồi hộp chờ án lệnh. Viên cai ngục dừng lại trước hàng những tù nhân và tuyên bố: “Mười đứa trong tụi bay sẽ chết thay nó. Lần sau sẽ là 20 đứa”. Tuyên bố xong hắn ta chậm rãi đi ngang qua hàng đầu, có vẻ suy nghĩ, rồi nói : “Tên này… tên này… tên này. Tất cả 10 người. 10 người bị tử hình”. Lúc đó một trong số những người ấy kêu lên: “Ôi vợ tôi, các con tôi!”. Những người còn đứng trong hàng ngũ thở ra nhẹ nhõm.
Nhưng rồi một chuyện bất ngờ xảy ra: Có một người tù không thuộc nhóm những người bị chỉ định, mạnh dạn bước ra khỏi đám người đang xếp hàng im lặng trong sợ hãi, nhìn thẳng vào người cai ngục. Tên này kinh ngạc lùi lại một chút rồi hô to: “Đứng lại!”
Cha Maximilianô Kolbe dừng lại trước mặt y. Thế rồi một cuộc đối thoại chưa từng nghe đã diễn ra. Một cuộc đối thoại điên khùng mà những người sống sót đã kể lại thật chính xác:
– Xin ông cho phép tôi được chết thay cho một trong những người bị lên án này!
Viên cai tù kinh ngạc nhìn cha.
– Anh là ai ?
– Là một linh mục công giáo.
– Anh muốn chết thế cho ai?
– Người này. Cha Kolbe chỉ vào người vừa mới la khóc.
– Tại sao?
– Bởi vì đời tôi không còn giúp ích gì mấy. Trong khi ông này còn có gia đình.
Viên cai trại suy nghĩ, rồi đưa tay ra hiệu đồng ý. Cha Kolbe nhập bọn với đám tử tội.
Một phút im lặng. Không ai hiểu rõ sự việc vừa xảy ra.
Các tù nhân bị lột hết quần áo, nhốt vào một căn hầm. Kể từ giây phút đó, người tù không còn gì để ăn và điều kinh khủng là không có gì để uống gì nữa.
Trước kia căn nhà hầm này luôn vang lên những tiếng kêu la thảm thiết. Thật là một địa ngục nhỏ. Nhưng lần này có cái gì đã thay đổi. Mấy người lính Đức quốc xã rất đỗi ngạc nhiên. Đám tử tù cầu nguyện và ca hát. Vẫn có tiếng rên rỉ, nhưng không còn là những tiếng kêu tuyệt vọng nữa.
Ngày thứ 12, tức ngày 14-08-1941 cửa phòng giam đói được mở ra. Mọi người đều đã chết, trừ một mình cha Kolbe, với đôi mắt vẫn sáng dù thân mình tàn rũ. Cha ngồi giữa đất, đầu tựa vào tường, thân mình ngay thẳng và khuôn mặt rạng rỡ. Viên cai ngục bắt ngài đưa tay ra và chích cho một mũi thuốc độc ân huệ. Vị linh mục chết ngay. Họ đưa xe đến xúc xác ngài và các bạn tù đem đi. Như bao nhiêu người khác, xác cha bị hoả thiêu trong lò và nắm tro tàn bị ném tung trong gió bốn phương.
3. THAY CHO LỜI KẾT
Đây là lời của Đức thánh Cha Phaolô VI
“Lịch sử sẽ không thể quên được trang sử ghê tởm này (của thời Đức quốc xã) nhưng giữa sự kinh hãi, người ta vẫn không thể không nhận ra những tia sáng tố giác bóng tối và đồng thời lướt thắng bóng tối. Một trong những tia sáng ấy, và có lẽ là tia sáng rực rỡ hơn hết, được ban cho chúng ta trong khuôn mặt tiều tụy và bình thản của cha M. Kolbe, vị anh hùng luôn bám chắc vào một niềm hy vọng nghịch lý nhưng có suy nghĩ. Tên tuổi Ngài mãi mãi lớn lao và sẽ nhắc nhở cho ta thấy rằng giữa những con người khốn khổ, vẫn có thể tồn tại những năng lực và giá trị luân lý phong phú biết bao !” (Bài giảng của Đức Phaolô VI…)
Và đây là những lời của Đức Hồng Y Wojtyla sau này là Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tại phòng họp báo toà thánh Vatican ngày 14-10-1971
“Chân phước Maximilianô Kolbe không biết đến hận thù là gì. Trong nhà tù Pawiak, ở Vacsava, trong trại tập trung Auschwitz Ngài nhìn những người hành hình cũng như những kẻ bị hành hình với cùng một cái nhìn trong sáng đến nỗi những kẻ tàn bạo nhất cũng phải quay mặt đi : “Đừng nhìn bọn tao như thế”. Con người mang bản số 16670 ấy đã dành được một cuộc chiến thắng khó khăn nhất: ấy là cuộc chiến của tình yêu biết xá tội, biết thứ tha. Ngài đã đi vào trong cái vòng luẩn quẩn hiểm ác của hận thù với một cõi lòng nóng bỏng tình yêu và lập tức cái “ngón trù ếm” quỉ quái của nó bị giải độc. Tình yêu đã mạnh hơn sự chết.