Kính gởi Quý Cha, Quý Ông Bà và Anh Chị Em :
LỜI CHÚA: LƯƠNG THỰC HẰNG NGÀY
THỨ SÁU TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN
Thursday of the Fourteenth Week in Ordinary Time
Memorial of Saint Kateri Tekakwitha, Virgin (USA)
SỐNG LỜI CHÚA
GOSPEL : Mt 10:7-15
Jesus said to his Apostles:
“As you go, make this proclamation:
‘The Kingdom of heaven is at hand.’
Cure the sick, raise the dead,
cleanse the lepers, drive out demons.
Without cost you have received; without cost you are to give.
Do not take gold or silver or copper for your belts;
no sack for the journey, or a second tunic,
or sandals, or walking stick.
The laborer deserves his keep.
Whatever town or village you enter, look for a worthy person in it,
and stay there until you leave.
As you enter a house, wish it peace.
If the house is worthy,
let your peace come upon it;
if not, let your peace return to you.
Whoever will not receive you or listen to your words—
go outside that house or town and shake the dust from your feet.
Amen, I say to you, it will be more tolerable
for the land of Sodom and Gomorrah on the day of judgment
than for that town.”
Bài đọc :
Ca nhập lễ : Tv 47,10-11
Lạy Thiên Chúa, giữa nơi đền thánh,
chúng con hồi tưởng lại tình Chúa yêu thương.
Danh thánh Chúa gần xa truyền tụng,
tiếng ngợi khen Ngài khắp cõi lừng vang ;
tay hữu Chúa thi hành công lý.
Bài đọc 1 : St 46,1-7.28-30
Cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con.
Bài trích sách Sáng thế.
1 Khi ấy, ông Ít-ra-en lên đường, đem theo tất cả những gì ông có. Ông đến Bơ-e Se-va và ông dâng những lễ tế lên Thiên Chúa của cha ông là I-xa-ác. 2 Thiên Chúa phán với ông Ít-ra-en trong thị kiến ban đêm, Người phán : “Gia-cóp ! Gia-cóp !” Ông thưa : “Dạ, con đây !” 3 Người phán : “Ta là En, Thiên Chúa của cha ngươi. Đừng sợ xuống Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn. 4 Chính Ta sẽ xuống Ai-cập với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên. Giu-se sẽ vuốt mắt cho ngươi.” 5 Ông Gia-cóp rời Bơ-e Se-va. Các con trai ông Ít-ra-en đã chở ông Gia-cóp, cha họ, và đàn bà con trẻ của họ trên những chiếc xe Pha-ra-ô đã gửi đến để rước ông đi.
6 Họ đem theo các đàn vật của họ và các tài sản họ đã gây được ở đất Ca-na-an, và họ đến Ai-cập, ông Gia-cóp và tất cả dòng dõi ông cùng với ông : 7 các con trai, cháu nội trai, con gái, cháu nội gái của ông. Ông đưa tất cả dòng dõi ông vào Ai-cập với ông.
28 Ông Gia-cóp đã sai ông Giu-đa đi trước, đến với ông Giu-se, để ông Giu-se tới Gô-sen gặp ông. Khi họ đến đất Gô-sen, 29 thì ông Giu-se cho thắng xe riêng và lên Gô-sen đón ông Ít-ra-en, cha ông. Khi hai cha con vừa thấy nhau, thì ông Giu-se bá cổ cha và gục đầu vào cổ cha mà khóc hồi lâu. 30 Ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se : “Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con, và thấy con còn sống.”
Đáp ca : Tv 36,3-4.18-19.27-28.39-40 (Đ. c.39a)
Đ. Người công chính được Chúa thương cứu độ.
3Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện,
thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.
4Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn,
Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng.
Đ. Người công chính được Chúa thương cứu độ.
18Chúa chăm sóc cuộc đời người thiện hảo,
gia nghiệp họ tồn tại đến muôn năm.
19Buổi gian nan họ không hề hổ thẹn,
ngày đói kém lại được no đầy.
Đ. Người công chính được Chúa thương cứu độ.
27Hãy làm lành lánh dữ, bạn sẽ được một nơi ở muôn đời.
28Bởi vì Chúa yêu thích điều chính trực,
chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung.
Đ. Người công chính được Chúa thương cứu độ.
39Chính nhân được Chúa thương cứu độ
và bảo vệ chở che trong buổi ngặt nghèo.
40Chúa phù trợ và Người giải thoát,
giải thoát khỏi ác nhân và thương cứu độ,
bởi vì họ ẩn náu bên Người.
Đ. Người công chính được Chúa thương cứu độ.
Tung hô Tin Mừng : Ga 16,13a ; 14,26d
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn, và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng : Mt 10,16-23
Không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
16 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các Tông Đồ rằng : “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.
17 “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. 18 Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho các dân ngoại. 19 Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì : 20 thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.
21 “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. 22 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
23 “Khi người ta bắt bớ anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em : anh em chưa đi hết các thành của Ít-ra-en, thì Con Người đã đến.”
Ca hiệp lễ : Tv 33,9
Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy,
hạnh phúc thay ai trông cậy nơi Người.
SUY NIỆM
DÁM BỊ GHÉT
Thánh Stêphanô – vị tử đạo tiên khởi thời Giáo hội sơ khai – đã chịu ném đá cho tới chết để làm chứng về danh Đức Giêsu Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu báo trước cho các môn đệ biết những khó khăn trong sứ vụ loan báo ơn cứu độ. Người muốn các ông chuẩn bị tinh thần và tâm hồn mạnh mẽ hầu đứng vững trước những thử thách gian nan. Qua những gian nan ấy, các môn đệ sẽ trở nên hy lễ đem lại nhiều hoa trái và được chung hưởng phần thưởng là Nước Trời.
Khi suy nghĩ về cái chết của thánh Stephanô, chúng ta nhận ra ơn gọi Kitô hữu cũng đòi buộc mỗi người lội ngược dòng với thế gian, thậm chí bị thế gian ghét bỏ. Tuy nhiên, người nào sống bền tâm vững chí vào giá trị Tin Mừng thì sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng là hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.
(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)
LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY
Lạy Chúa, xin củng cố đức tin của chúng con, để chúng con can đảm bước đi theo Ngài dù phải đối diện với thử thách hay bách hại. Amen.
TU ĐỨC SỐNG ĐẠO
Cha Luis Dri, 96 tuổi, cha giải tội “xin lỗi Chúa vì đã tha tội quá nhiều”,
được chọn làm Hồng y
Trong số 21 Hồng y tân cử được Đức Thánh Cha công bố sau khi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 9/7/2023 có Cha Luis Pascual Dri, 96 tuổi, dòng Capuchinô, từ nhiều năm nay là giải tội tại đền thánh Đức Mẹ Pompei ở Buenos Aires. Vào ban chiều cha thường cầu nguyện trước Nhà Tạm Thánh Thể và xin Chúa tha thứ, bởi vì cha đã “tha tội quá nhiều”.
Đức Thánh Cha đã nhiều lần nói về Cha Luis Dri. Lần thứ nhất vào ngày 6/3/2014, khi gặp gỡ các cha xứ Roma. Ngài lặp lại gương mẫu này vài tháng sau, vào ngày 11/5/2014, trong bài giảng Thánh lễ truyền chức linh mục. Ngài đã trưng dẫn gương của cha Dri một lần nữa trong cuốn sách phỏng vấn “Tên của Thiên Chúa là thương xót”, sau đó trưng dẫn một lần nữa vào tháng 2/2016, trong bài giảng thánh lễ với các tu sĩ dòng Capuchinô tại đền thờ Thánh Phêrô, và một lần nữa trong cuộc gặp gỡ với các các cha giải tội của Năm Thánh. Vào tháng 2/2017, Đức Thánh Cha đã tặng cho các cha xứ Roma cuốn sách “Đừng sợ tha thứ”, với tiểu sử của Cha Dri.
Một cha giải tội tuyệt vời
Đức Thánh Cha kể: “Tôi nhớ đến một cha giải tội tuyệt vời, một cha dòng Capuchinô, người đã thi hành sứ vụ ở Buenos Aires. Một lần cha đến gặp tôi, cha muốn nói chuyện. Cha nói với tôi: ‘Con xin Đức cha giúp, ở tòa giải tội con luôn gặp rất nhiều người, đủ loại người, khiêm nhường và kém khiêm nhường, nhưng cũng có nhiều linh mục… Con tha thứ nhiều và đôi khi cũng rất lo lắng, lo lắng vì đã tha thứ quá nhiều.’ Chúng tôi nói về lòng thương xót, và tôi hỏi cha ấy đã làm gì khi cha ấy cảm thấy bối rối như vậy. Cha đã trả lời tôi như thế này: ‘Con đến nhà nguyện của chúng con, trước Nhà Tạm Thánh Thể và con nói với Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin tha thứ cho con vì con đã tha thứ quá nhiều. Nhưng chính Chúa đã làm gương xấu cho con!’. Điều này tôi sẽ không bao giờ quên. Khi một linh mục cảm nghiệm được lòng thương xót của chính mình theo cách này, thì ngài có thể ban phát lòng thương xót cho người khác.”
Giúp đỡ, gần gũi với những người đến xưng tội
Cha Luis Dri đã chia sẻ: “Tôi không phải là một người, một linh mục, một tu sĩ học thức, tôi không có bằng tiến sĩ, tôi không có gì cả. Nhưng cuộc đời đã dạy tôi rất nhiều, cuộc đời đã ghi dấu ấn trong tôi, và vì tôi sinh ra trong hoàn cảnh rất nghèo khó, dường như tôi luôn phải có một lời thương xót, một lời giúp đỡ, một sự gần gũi với bất cứ ai đến đây. Không ai nên rời đi với suy nghĩ rằng họ không được hiểu hoặc bị coi thường hoặc bị từ chối.”
Thương xót; đừng sợ
Cha dành mỗi sáng và mỗi chiều để ngồi giải tội cho đến chiều muộn. Cha không có lời khuyên cho các linh mục giải tội, nhưng nói rằng “Thương xót, thấu hiểu, đặt cả cuộc đời để lắng nghe, để hiểu, để có thể đặt mình vào da thịt của người khác, để hiểu những gì đang xảy ra.” Và với các hối nhân, cha luôn khuyên: “Đừng sợ. Tôi luôn cho thấy hình ảnh này, hình ảnh diễn tả cái ôm của người Cha dành cho đứa con hoang đàng.”
Vatican News
Thánh nữ Kateri Tekakwitha
Vào giữa những năm 1642 và 1649, thánh Isaac Giogiơ (Isaac Jogues) và các Bạn tử đạo đã từ Pháp trẩy tàu sang vùng Đất Mới để rao giảng Tin mừng. Các ngài đã bị những người Mohawk giết hại đang khi rao giảng lời Chúa cho những thổ dân da đỏ Huron. Mười năm sau khi thánh Isaac Giogiơ qua đời, Kateri Tekakwitha được sinh ra ngay tại ngôi làng mà thánh Isaac đã tử vì đạo. (Chúng ta cử hành thánh lễ kính thánh Isaac và các Bạn tử đạo vùng Bắc Mỹ ngày 19 tháng Mười.) Tekakwitha sinh tại Auriesville, New York, vào năm 1656. Thân mẫu ngài là một Kitô hữu người Mỹ gốc Algonquin. Thân phụ ngài, là tù trưởng của dân Mohawk, chưa gia nhập đạo. Cha mẹ và anh trai của Tekakwitha đã chết vì căn bệnh đậu mùa khi Tekakwitha lên 4 tuổi. Cũng căn bệnh này đã hủy hoại vẻ đẹp và làm cho khuôn mặt của Tekakwitha bị biến dạng. Người chú, cũng là tù trưởng của dân Mohawk, đã nuôi nấng Tekakwitha. Đây là cách Tekakwitha gặp gỡ các nhà truyền giáo. Vào một dịp kia, chú của Tekakwitha tiếp đón ba nhà truyền giáo thuộc dòng Tên. Têkakwitha được nghe những lời chỉ dạy về đức tin. Rồi ngài được chịu phép Thanh tẩy vào Chúa nhật Phục Sinh năm 1676. Đó cũng là dịp Tekakwitha nhận tên thánh Kateri, nghĩa là Catarina.
Ngôi làng Tekakwitha đang sống chưa phải là ngôi làng Công giáo. Thực sự, chẳng có Kitô hữu nào sống trong căn nhà của Tekakwitha. Việc Tekakwitha chọn lối sống độc thân đã làm cho những người thổ dân da đỏ phật lòng. Họ đã lăng mạ Tekakwitha và có vài người đã phẫn nộ vì Tekakwitha không chịu làm việc trong ngày Chủ nhật. Nhưng Kateri vẫn giữ vững lập trường của mình. Ngài đã đọc kinh Mân Côi mỗi ngày, ngay cả khi bị người ta giễu cợt. Kateri đã nhẫn nại chấp nhận và âm thầm chịu đựng. Cuộc sống của Kateri càng trở nên khó khăn vì sự bách hại của những người cùng làng. Sau cùng, Kateri đã tới sống tại một ngôi làng Công giáo gần Montriơ. Tại đây, vào ngày lễ Chúa Giáng Sinh năm 1677, Kateri đã được Rước lễ lần đầu. Và đó là một ngày hồng phúc! Cha Phêrô Côlônec (Pierre Cholonec), một linh mục thuộc dòng Tên, đã hướng dẫn đời sống thiêng liêng cho Kateri suốt ba năm sau đó. Kateti và một phụ nữ Iroquois tên Anastasia đã sống đời Kitô hữu rất quảng đại và phấn khởi. Vào ngày 25/3/1679, Kateri đã tuyên lời khấn tự giữ mình đồng trinh. Ngài qua đời ngày 17/4/1680. Sau đó 300 năm, vào ngày 22/6/1980, Kateri Tekakwitha được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc Chân phước. Ngày 21/10/2012, Đức Bênêdictô XVI phong thánh cho vị nữ thánh người da đỏ đầu tiên,
Những người mến mộ đã đặt cho Kateri Tekakwitha một tên gọi rất dễ thương, “bông hoa huệ của những người Mohawk”. Ngài được các sắc dân da đỏ ở Mỹ và Canada sùng kính cách riêng.
Chân phước Kateri Tekakwitha đã nhận được hồng ân đức tin vào Chúa Giêsu qua những hy sinh gian khó của các vị thừa sai. Chúng ta cũng hãy cảm tạ Chúa Giêsu vì Người đã sai các thừa tác viên đem Tin mừng đến cho chúng ta. Họ là ai? Là ông bà, cha mẹ, người thân, cha xứ, giáo lý viên… Chúng ta hãy nài xin chân phước Kateri Tekakwitha dạy chúng ta sống biết ơn qua việc chia sẻ đức tin của mình cho những người khác.
(Theo tinmung.net)